12:12
-


Đá macma
Đá mácma Kimberlite
Đá mácma hay đá magma là những loại đá được thành tạo do sự đông nguội của những dung thể magma nóng chảy được đưa lên từ những phần sâu của vỏ Trái Đất. Quá trình đông nguội có thể tạo ra các đá có các khoáng vật kết tinh rõ ràng hoặc không kết tinh tùy thuộc vào môi trường mà khối magma đông nguội, và dựa vào đó người ta ta phân ra: đá xâm nhập và phun trào. Macma này có thể có nguồn gốc từ manti của Trái Đất hoặc từ các loại đá đã tồn tại trước đó bị nóng chảy do các thay đổi nhiệt độ áp suất cực cao. Trên 700 loại đá mácma đã được miêu tả lại, phần lớn trong chúng được tạo ra gần bề mặt lớp vỏ Trái Đất.
Ý nghĩa địa
chất
Đá mácma có ý nghĩa quan trọng
về mặt địa chất
do:
Các
khoáng vật và tính
chất hóa học tổng thể
của chúng cung cấp thông tin về thành phần của lớp
vỏ trái đất tại những
đá mácma được hình thành
cũng như các điều kiện về
nhiệt độ và áp suất hình thành nên đá và thông
tin về các loại đá trước đó bị
nóng chảy;
Niên
đại tuyệt đối của
chúng có thể được xác định bằng các phương
pháp xác định niên đại bằng phóng xạ
khác nhau và vì thế có thể so sánh với các địa tầng
địa chất cận kề,
cho phép miêu tả lại thời gian diễn
ra các sự kiện một cách tương
đối chính xác;
Các
đặc điểm của chúng thông thường
được đặc trưng bởi
các điều kiện của môi trường
kiến tạo cụ thể,
cho phép tái tạo lại các mô hình kiến tạo
Trong
một số hoàn cảnh đặc
biệt, chúng là nguồn gốc của
một số mỏ khoáng sản
quan trọng: ví dụ vonfram, thiếc và urani, thông thường hay đi cùng với đá granit.
Phun trào núi lửa
và vì thế bị làm cứng và đông đặc
trong điều kiện phơi ra ngoài khí quyển.
Do nguội nhanh trong điều kiện nhiệt
độ vàáp suất thấp, các khoáng vật
không kịp kết tinh, hoặc chỉ là kết
tinh một phần nên có kích thước tinh thể bé, chưa hoàn chỉnh,
hoặc tồn tại ở
dạng vô định hình. Mặt khác, các chất khí và hơi nước không kịp
thoát ra, để lại nhiều lỗ
rỗng, làm cho đá nhẹ, có loại nổi
trên mặt nước.
Ngoài ra, đá phun trào cũng được
còn gọi là đá núi lửa, trong ngôn ngữ một số
tiếng nước ngoài như tiếng Anh chẳng
hạn, gọi làvolcanic rock, lấy theo tên của Vulcan còn là tên gọi của người
La Mã để chỉ vị thần
cai quản lửa. Ở độ
sâu vài kilômét dưới bề mặt Trái Đất
thì nhiệt độ cao hơn so với
nhiệt độ mà phần lớn
các loại đá có thể nóng chảy tại bề
mặt. Tuy nhiên, các loại đá này vẫn ở dạng
cứng do áp suất lớn tạo
ra bởi các lớp đá nằm phía trên. Nếu
như có các khe nứt trong các lớp đá thì áp suất bị tụt
xuống và một khối lượng
đáng kể đá bị nóng chảy. Macma tạo ra sẽ bị
ép phụt lên trên thông
qua các kẽ nứt tới bề
mặt và tạo thành núi lửa.
Đá nóng chảy
(gọi là dung nham hay
lava) sẽ chảy ra từ núi lửa
và loang rộng. Do dung
nham bị nguội và kết tinh nhanh nên nó tạo ra các loại
đá có kiến trúc vi tinh.
Nếu sự làm nguội là quá nhanh, không cho quá
trình kết tinh có thể xảy ra thì các loại
đá tạo thành có kiến trúc thủy tinh (chẳng hạn như
đá opxidian tức đá vỏ chai).
Do kiến
trúc vi tinh nên các dạng
khác nhau của đá phun
trào khó phân biệt bằng mắt thường
hơn so với các dạng khác nhau của
đá xâm nhập. Nói chung, với kiến trúc vi tinh các khoáng vật của đá phun trào chỉ
có thể xác định bằng cách soi kính thạch
học (đá được mài thành các mẫu mỏng và được
soi dưới kính hiển vi có hai ni-côn) và sự phân loại bằng mắt
thường chỉ là gần đúng .
Các vật
chất có thể bị núi lửa
tống ra ngoài rất mãnh liệt trong quá trình hoạt động phun trào là các khối, cục
đá và tro. Các vật chất này được gọi
là đá trầm tích núi lửa (cũng còn gọi là đá vụn núi lửa, tuf) và có thể
rơi gần đó, tạo thành một
phần của núi lửa hay bị
mang đi xa nhờ gió.
Các tinh thể
chứa trong đá lửa ban tinh mịn được gọi
là pocfia. Kiến trúc
pocfia phát triển khi một số tinh thể
phát triển lớn đến kích thước
đáng kể trước khi phần chủ yếu
của macma đông đặc lại thành khối
vật liệu đồng nhất
hạt mịn.
Xâm nhập
nông
Khái niệm
xâm nhập nông hiện nay vẫn còn một
số tranh cãi nhưng đa số các quan điểm
cho rằng nó được kết tinh bên dưới
mặt đất đến độ
sâu 1,5km.
Phân loại
Việc
phân loại đá mácma có thể cung cấp cho con người
thông tin quan trọng về các điều kiện
mà chúng hình thành. Hai yếu
tố quan trọng được sử
dụng trong phân loại đá lửa là kích thước
hạt (phụ thuộc rất
nhiều vào lịch sử quá trình làm nguội)
và thành phần khoáng vật của đá. Fenspat, thạch
anh, olivin, pyroxen, amphibol và mica là các khoáng vật quan trọng
trong sự hình thành đá
mácma và sự có mặt của chúng là cơ
sở để phân loại các loại đá này. Các khoáng vật khác có mặt trong đá không điển hình được gọi làkhoáng chất
phụ.
Trong phân loại
đơn giản hóa, các dạng đá mácma được chia trên sự hiện diện
của fenspat, sự có/vắng mặt
của thạch anh và trong các loại đá không có fenspat hay thạch anh thì theo sự có mặt của
các khoáng vật chứa sắt hay magiê.
Kích thước
tinh thể
Theo kích thước
tinh thể, đá mácma có thể phân loại thành pecmatit (hạt rất lớn),
hiển tinh (chỉ có hạt lớn
hay phanerit), ban tinh(một
số hạt lớn trên nền
là các hạt nhỏ hay pocfia), vi tinh (chỉ có hạt nhỏ
hay aphanit), thủy tinh
(không có hạt).
Đá
có kiến trúc hiển tinh chứa các khoáng vật với tinh thể
nhìn thấy bằng mắt thường
và thường đặc trưng cho đá xâm nhập
(do quá trình làm nguội
càng chậm thì tinh thể càng to). Trong một số ngoại
lệ, dạng đá này có thể chứa các tinh thể
cực lớn, trong trường hợp này chúng được
gọi là pecmatit.
Trong
đá phun trào, khi quá trình làm nguội
là nhanh hơn, các tinh thể khoáng vật riêng rẽ thông thường không nhìn thấy được bằng
mắt thường và chúng được gọi là kiến
trúc vi tinh.
Kiến trúc ban tinh là trạng thái trung gian giữa hai loại trên: khối đá có kiến trúc vi tinh, nhưng trên nền vi tinh này có thể quan sát được một số
tinh thể.
Nếu macma nóng chảy bị làm nguội
quá nhanh không cho quá trình kết
tinh diễn ra thì sản phẩm tạo
ra là có kiến trúc thủy tinh như thủy tinh núi lửa
hay opxidian đôi khi còn được
gọi là đá vỏ chai.
Hình dạng
tinh thể
Hình dạng
tinh thể cũng là yếu tố quan trọng
trong kiến trúc đá mácma.
Các tinh thể có thể là tự hình, bán tự
hình và tha hình:
Tự hình (Euhedral), nếu hình dạng tinh thể được bảo
toàn hay tinh thể có các
mặt kết tinh rõ ràng.
Bán
tự hình
(Subeuhedral), nếu chỉ một phần
được bảo toàn.
Tha
hình (Anhedral), nếu
tinh thể không thể hiện rõ ràng hướng
kết tinh có thể nhận biết
được.
Theo cấu
tạo
Cấu tạo lỗ
hổng là đá có các khoảng trống sinh ra bởi
khí bị chiếm giữ trong quá trình nguội đi.
Cấu tạo dòng chảy
được hình thành khi mácma
chảy tràn trên bề mặt và đông nguội
với các tốc độ khác nhau.
Tuf
bao gồm các đá vụn có trước hoặc
bom núi lửa bị đẩy ra khi núi lửa
phun trào gồm một số loại
như: tufit, tufogen.
Thành phần
khoáng vật - hóa học
Các dạng
đá mácma có thể phân chia
nhỏ theo các thông số hóa học/ khoáng vật
tạo đá theo hai hướng chính:
Hóa
học: - Tổng hàm lượng kiềm - silica (biểu
đồ TAS) cho phân loại đá mácma được sử dụng
khi không có các dữ liệu về quá trình hình thành hay thành phần khoáng vật:
Các
đá mácma axít chứa hàm lượng silica cao, lớn hơn 63% SiO2 (ví dụ
riôlit và đaxít)
Các
đá mácma trung tính chứa
52 - 63% SiO2 (ví dụ
anđêsit)
Các
đá mácma mafic chứa
ít silica (45 - 52%) và thông thường
chứa nhiều sắt - magiê (ví dụ
đá bazan)
Các
đá mácma siêu mafic chứa
ít hơn 45% silica. (ví dụ picrit và kômatiit)
Các
đá mácma kiềm với 5 - 15% chất kiềm (K2O + Na2O) (ví dụ phônôlit và trachyt)
ghi chú: Thuật
ngữ axít-bazơ được sử
dụng rộng rãi hơn trong các tài liệu địa chất
cũ. Thay vào đó, người ta
sử dụng các thuật ngữ felsic, mafic, siêu mafic...
Khoáng
vật : Hàm lượng khoáng vật của Fe và Si hay mafic:
Đá
felsic, chủ yếu chứa thạch
anh, fenspat kiềm và/hoặc khoáng vật chứa fenspat: các khoáng vật của
Fe và Si; các dạng đá này
(ví dụ granit) thông thường có máu sáng và có tỷ trọng thấp.
Đá
mafic, chủ yếu chứa các khoáng vật
mafic: pyroxen, olivin và plagiocla canxi; các loại
đá này (ví dụ đá bazan)
thông thường sẫm màu và có tỷ trọng lớn
hơn đá felsic.
Đá
siêu mafic, chứa
trên 90% khoáng chất
mafic (ví dụ dunit)
Bảng dưới đây là sự phân chia đơn giản đá lửa
theo cả thành phần và phương thức
diễn ra.
Thành phần
|
||||
Phương thức diễn
ra
|
Axít
|
Trung gian
|
Bazơ
|
Siêu bazơ
|
Xâm nhập
|
Granit
|
Điôrit
|
Gabbrô
|
Periđôtit
|
Phun trào
|
Riôlit
|
Anđêsit
|
Bazan
|
Các khoáng vật
tạo
đá chủ
yếu
Các khoáng vật
tạo đá mácma chủ yếu: thạch
anh, fenspat, mica và khoáng vật
mầu.
Các khoáng vật
có các tính chất khác
nhau, nên sự có mặt của chúng tạo
ra cho đá có những tính
chất khác nhau (cường độ, độ
bền vững, khả năng gia công...)
Thạch anh là SiO2 ở dạng kết
tinh, tinh thể hình lăng
trụ 6 cạnh, ít khi trong suốt mà thường có màu trắng
và trắng sữa, độ cứng
7, khối lượng riêng 2,65 g/cm3, cường độ cao khoảng
20.000 kg/cm2, chống mài
mòn tốt, ổn định đối
với axit (trừ axit fluohidric và fosforic).
Ở nhiệt độ thường,
thạch anh không tác dụng với vôi, nhưng
ở trong môi trường hơi nước
bão hoà và nhiệt độ 175 - 2000C có thể sinh ra phản ứng silicat.
Fenspat
có hai loại:
cát
khai thẳng
góc-octola (K2O.Al2O3.6SiO2 - fenspat kali)
cát
xiên góc - plagiocla (Na2O.Al2O3.6SiO2 - fenspat natri và CaO.Al2O3.2SiO2 -
fenspat canxi).
Tính
chất cơ bản của
fenspat: màu biến đổi từ trắng,
trắng xám, vàng đến hồng và đỏ;
khối lượng riêng: 2,55 - 2,76 g/cm3,
độ cứng 6 - 6,5, cường độ chịu
nén 1200 - 1700 kg/cm2. Khả
năng chống phong hoá của felspat kém, kém ổn định đối
với nước và đặc biệt
là nước có chứa CO2 tạo ra Al2O3.2SiO2.2H2O là caolonit - thành phần chủ yếu
của đất sét- theo phản ứng:
K2O.Al2O3.6SiO2 + CO2 +2H2O --> K2CO3 + 4SiO2 +
Al2O3.2SiO2.2H2O
Mica
là những
alumôsilicat ngậm nước rất phức
tạp, có độ cứng 2-3, khối
lượng riêng 2,76 - 3,2
g/cm3. Phổ biến nhất là hai loạibiotit
và muscovit.
Biotit
có màu nâu đen hay còn gọi
là mica đen, thường chứa ôxít magiê và ôxít sắt, công thức: (Mg, Fe)3.Si3.AlO10.OHF)2.
Muscovit
thì trong suốt hay
còn gọi là mica trắng, có công thức: K2O. Al2O3.6SiO2 .2H2O .
Ngoài
hai loại trên còn
gặp vecmiculit được tạo thành do sự
oxy hoá và hydrat hoá biotit. Khi nung ở
900 - 10000 độ C nước sẽ mất
đi, thể tích vecmiculit
tăng 18 - 25 lần.
Khoáng
vật sẫm màu chủ yếu gồm
amphibol, pyroxen, olivin là các khoáng vật
có màu sẫm (từ màu lục đến
màu đen) cường độ cao, dai và bền, khó gia công.
Sử
dụng
Đá mácma xâm nhập
• Dunit là
loại đá xâm nhập sâu của nhóm đá siêu mafic. Thành phần khoáng vật gồm chủ
yếu là olivin với hơn 90%,pyroxen, hocblenthì hiếm hơn, ngoài ra còn có mica, cromit.Cấu tạo đặc
sít, đôi khi phân dải. Kiến trúc hạt thô.
• Granit
(đá hoa cương) là loại đá axit có ở nhiều nơi,
chủ yếu do thạch anh, fenspat và một ít mica, có khi còn tạo thành cảamphibol
và pyroxen. Granit có màu tro nhạt,
hồng nhạt hoặc vàng, phần
lớn có kết tinh hạt lớn.
• Granit rất đặc chắc,
khối lượng thể tích 2600 - 2700 kg/m3, cường độ
nén rất lớn (1200 - 2500kg/cm2), độ hút nước nhỏ
(dưới 1%), khả năng chống phong hoá rất cao, độ chịu lửa
kém, có một số loại có màu sắc
đẹp. Đá granit được sử dụng
rộng rãi trongxây dựng (ốp mặt
ngoài nhà và các công trình đặc
biệt, nhà công cộng, làm nền móng cầu, cống, đập...)
• Syenit là
loại đá trung tính, thành
phần khoáng vật chủ yếu
là orthocla, plagiocla, axit, các khoáng vật
mầu xẫm (amphibol, pyroxen,biotit),
một ít mica, rất ít thạch anh. Sienit màu tro hồng, có cấu
trúc toàn tinh đều đặn, khối lượng
riêng 2,7 -2,9 g/cm3, khối
lượng thể tích 2400 - 2800 kg/m3, cường độ chịu
nén 1500 - 2000kg/cm2. Sienit được
ứng dụng khá rộng rãi trong xây dựng.
• Diorit là
loại đá trung tính, thành
phần chủ yếu là plagiocla trung tính (chiếm khoảng ¾), hocblen, augit, biotit, amphibol và một ítmica và pyroxen. Diorit thường có màu xám, xám lục có xen các vết xẫm và trắng;
khối lượng thể tích 2900 - 3300 kg/m3, cường độ
chịu nén 2000 -
3500kg/cm2. Diorit dai, chống
va chạm tốt, chống phong hoá cao, dễ
đánh bóng, nên được sử dụng để
làm mặt đường, tấm ốp.
• Gabbro là
loại đá bazơ, thành phần gồm có plagiocla bazơ
(khoảng 50%) và các
khoáng vật màu xẫm như pyroxen, amphibol vàolivin. Gabbro có màu tro xẫm hoặc từ
lục thẫm đến đen, đẹp,
có thể mài nhẵn, khối lượng
thể tích 2900 - 3300
kg/m3, cường độ chịu nén 2000 - 3500kg/cm3. Gabbro được sử dụng
làm đá dăm, đá tấm để lát mặt đường
và ốp trang trí các công
trình kiến trúc.
Đá mácma phun trào
• Diaba có
thành phần tương tự gabbro, là loại
đá trung tính, có kiến
trúc hạt nhỏ, hạt vừa
xen lẫn với kiến trúc hiển
tinh. Thành phầnkhoáng vật gồm có fenspat, pyroxen, olivin, màu tro sẫm hoặc lục
nhạt, cường độ nén 3000 - 4000 kg/cm2. Đá diaba rất dai, khó mài mòn, được sử dụng
chủ yếu làm đá rải đường và làm nguyên liệu đá đúc.
• Bazan là
loại đá bazơ, thành phần khoáng vật giống đá gabbro. Chúng có kiến trúc vi tinh hoặc
kiến trúc pocfia. Đá
bazan là loại đá nặng nhất trong các loại
đá mácma, khối lượng thể tích 2900 - 3500 kg/cm3, cường độ chịu
nén 1000 - 5000kg/cm2 (có loại
cường độ đến 8000kg/cm2), rất
cứng, giòn, khả năng chống phong hoá cao, rất khó gia công. Đá bazan là loại đá phổ biến
nhất trong xây dựng, được sử
dụng để lát đường làm cốt
liệu bê tông, tấm ốp chống
ăn mòn...
• Andesit
là loại đá trung tính.
Thành phần của nó gồm plagiocla trung tính, các khoáng vật sẫm mầu
(amphibol, pyroxen) và mica; có kiến
trúc ẩn tinh và kiến trúc dạng pocfia; có màu tro vàng, hồng, lục. Đá andesit có khả
năng hút nước lớn, khối lượng
thể tích 2200 ÷ 2700
kg/m3, cường độ chịu nén 1200 – 2400kg/cm2, chịu được axit nên được
dùng để làm vật liệu chống
axit.
Đá trầm
tích núi lửa
Ngoài các loại
đá đề cập ở trên, trong đá mácma phun trào còn có đá bọt, tuf, tro và tuf dung nham.
Các loại đá này bên cạnh việc hình thành do kết
tinh nhanh như đá phun
trào còn lắng đọng theo quy luật trầm tích. Nhiều
tác giả Liên Xô cũ xếp loại đá này sang đá trầm
tích
Tro
núi lửa: thưởng ở dạng
bột, giống nhau màu xám. Những hạt lớn
gọi là cát núi lửa. Đá bọt, là loại
thuỷ tinh núi lửa có độ rỗngcao
(độ rỗng đến 80%) được
tạo thành khi tro núi lửa lắng đọng
từ không khí. Đá bọt có kích thước 5-30mm, khối lượng thể
tích 500 kg/m3, độ hút nước thấp vì các lỗ
rỗng lớn và các lỗ rỗng ít liên thông nhau, hệ số
truyền nhiệt nhỏ (0,12 - 0,2 kCal/m.0C.h, cường độ chịu
nén 20 - 30kg/cm2. Cát núi lửa,
đá bọt được dùng làm cốt liệu cho bê tông nhẹ,
còn bột thì làm vật liệu cách nhiệt
và bột mài.
Từ núi lửa: là loại đá rỗng, được
tạo thành do quá trình tự lèn chặt tro núi lửa.
Loại tuf núi lửa chặt nhất
gọi là tơrat. Tuf núi lửa đá bọt cũng như
tro núi lửa thường dùng làm phụ gia hoạt tính chịu
nước cho chất kết dính vô cơ.
Từ dung nham do tro và cát núi lửa
rơi vào trong dung nham
nóng chảy sinh ra. Nó là
loại đá thuỷ tinh rỗng có màu hồng,
tím..., khối lượng thể tích 750 ÷ 1400 kg/m3, cường độ
chịu nén 60 - 100kg/cm2,
hệ số dẫn nhiệt
trung bình là 0,3 kCal/m.0C.h. Trong xây dựng,
tup dung nham được xẻ thành đá hộc để xây tường,
sản xuất đá dăm cho bê tông nhẹ.
Nguồn
gốc
và phân bố
Lớp vỏ Trái Đất dày khoảng
35 km (22 dặm) tại các phần dưới các vỏ
lục địa, nhưng trung bình chỉ
khoảng 7 km (4,3 dặm) dưới các đại
dương. Nó được tạo thành từ
các loại đá có tỷ trọng tương
đối thấp, và gần với
lớp vỏ là các loại đặc hơn
của lớp phủ, chúng mở
rộng tới độ sâu gần
3.000 km (1.860 dặm). Phần lớn macma tạo
thành đá mácma được sinh
ra trong các phần phía
trên của lớp phủ ở
nhiệt độ khoảng từ
600 đến 1.600 °C.
Khi macma nguội
đi, các khoáng vật sẽ kết tinh từ
hỗn hợp nóng chảy ở các nhiệt
độ khác nhau (quá trình kết tinh phân đoạn). Có tương đối ít khoáng vật
có vai trò quan trọng
trong sự hình thành của đá mácma. Có điều này là do macma nguồn chỉ giàu một
một số nguyên tố nhất định:
silíc, ôxy, nhôm, natri, kali, canxi, sắt
và magiê. Chúng là các nguyên tố
khi kết hợp với nhau tạo
ra các khoáng vật
silicat, là các loại
khoáng chất chiếm trên 90% thành phần các loại đá mácma.
Các loại
đá mácma chiếm khoảng 95% toàn bộ phần phía trên của
lớp vỏ Trái Đất, nhưng
chúng phân bố phổ biến hơn
ở bên dưới lớp đá trầm
tích và đá biến chất tương đối
mỏng nhưng phân bố rộng.